Theo khảo sát thì trên 90% phụ nữ đã dùng ít nhất một loại thuốc kê đơn hoặc thuốc không kê đơn (OTC) trong thời kỳ mang thai. 83% phụ nữ có thai sử dụng thuốc để điều trị các bệnh lý thường gặp. Điều đó cho thấy việc sử dụng thuốc trong thời kỳ mang thai diễn ra phổ biến và có xu hướng tăng dần theo thời gian. Hơn nữa, tỷ lệ phụ nữ mang thai phơi nhiễm với thuốc có thể gây dị tật thai là 6%; trong đó, 3% trẻ sinh ra có dị tật bẩm sinh về thể chất hoặc tâm thần. Vậy nên sử dụng thuốc trong thai kỳ thế nào là an toàn và làm sao giảm thiểu được nguy cơ thấp nhất từ thuốc mang lại, mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây.
Mục lục
Tra cứu dùng thuốc cho bà bầu ở đâu?
Theo thống kê, trong thời kỳ mang thai, những thuốc được sử dụng nhiều nhất là:
Thuốc giảm đau (chiếm 1/3 trường hợp) và paracetamol được sử dụng nhiều nhất trong nhóm thuốc này.
Thuốc sắt cho bà bầu (33%), axit folic (21.9%), vitamin tổng hợp cho bà bầu (17.4%), antacid (23%), kháng sinh (8% ở thời kì đầu, 5.8% từ tuần 32)
Với nhu cầu sử dụng thuốc ngày càng tăng, bạn cần tra cứu thông tin thuốc ở những nguồn đáng tin cậy, có bằng chứng rõ ràng để đảm bảo an toàn cho cả mẹ và thai nhi như:
Sách
Trang web nước ngoài
- Reprotox (Cung cấp hệ thống thông tin về các thuốc gây dị tật thai, danh mục các tác nhân gây dị tật thai, hệ thống phân loại nguy cơ của thuốc trong thai kỳ của Úc và Hòa Kì)
- MotherToBaby (Thông tin dành cho cả cán bộ y tế và người bệnh liên quan đến nguy cơ, lợi ích của các thuốc và các loại phơi nhiễm khác)
- Centers for Disease Control and Prevention (Trang web của Trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh tật Hoa Kì, cung cấp các tài liệu liên quan đến sử dụng một số thuốc thường gặp)
Trang web tại Việt Nam
- Tra cứu dùng thuốc cho bà bầu – Procare Việt Nam (Trang web cung cấp đầy đủ tên thuốc, phân loại mức độ an toàn, chỉ định, chống chỉ định, liều dùng… rất chi tiết dành cho phụ nữ mang thai và cho con bú)
Những thay đổi về dược động học và dược lực học của thuốc trong thai kỳ
Tính an toàn của việc sử dụng thuốc thường được tập trung chú ý trong 3 tháng đầu thai kỳ do thuốc thường có tác dụng theo nguyên lý “tất cả hoặc không” (thai chết lưu) trong 8 tuần đầu và hầu hết các dị tật bẩm sinh xảy ra sớm trong giai đoạn phát triển.
Sự thay đổi chức năng sinh lý của các hệ cơ quan trong cơ thể người mẹ bắt đầu diễn ra trong 3 tháng đầu thai kỳ và đạt đỉnh trong 3 tháng giữa thai kỳ. Những thay đổi chức năng tim mạch, hô hấp, tiêu hóa, thận và gan trong thời kỳ mang thai có thể dẫn đến thay đổi dược động học và chuyển hóa của thuốc. Ngoài ra, những thay đổi trên hệ thống protein vận chuyển và enzym cũng làm biến đổi thêm sự chuyển hóa thuốc trong thời kỳ mang thai.
Nguy cơ tác động trên thai nhi của thuốc đạt mức cao nhất ở giai đoạn phát triển tương ứng của thai (ví dụ nên tránh sử dụng thuốc tác động lên sự phát triển của sụn trong giai đoạn khung xương đang phát triển).
Hấp thu: Tăng pH dạ dày trong thời kỳ mang thai có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc có bản chất acid yếu và base yếu. Ngoài ra, buồn nôn, nôn và chậm tháo rỗng dạ dày cũng có thể làm thay đổi sự hấp thu của thuốc.
Phân bố: Do tăng lượng mỡ khi mang thai, thể tích phân bố của các thuốc liên kết nhiều với protein huyết tương tăng lên do nồng độ albumin giảm. Nồng độ thuốc không liên kết vẫn tương đối ổn định do các thuốc này nhanh chóng được đào thải qua gan và thận. Các thuốc thân lipid sẽ giảm tốc độ thải trừ do có thể tích phân bố lớn hơn.
Chuyển hóa: Trong thời kỳ mang thai, tăng nồng độ estrogen và progesteron sẽ làm thay đổi hoạt tính của các enzym gan, có thể làm tăng thải trừ một số thuốc nhưng lại gây tích lũy một số thuốc khác.
Thải trừ: Trong thai kỳ, nhìn chung, sự phơi nhiễm của cơ thể với thuốc trong thời kỳ mang thai giảm đi do tăng thải trừ thuốc ở cả dạng liên kết và không liên kết qua thận. Điều này có thể đem lại lợi ích trong việc giảm thiểu các biến cố bất lợi trong thai kỳ.
Tính an toàn của một số loại thuốc sử dụng trong thời kỳ mang thai
Thuốc kháng sinh
Điều trị nhiễm trùng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của thai nhi, giúp dự phòng lây nhiễm và đảm bảo sức khỏe người mẹ. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc kháng sinh từ thời điểm 1 tháng trước khi thụ thai đến tháng thứ 3 của thai kỳ có liên quan đến dị tật hở vòm miệng (thuốc có chứa nitrofurantoin), teo thực quản, thoát vị hoành bẩm sinh (thuốc chứa trimethoprim-sulfamethoxazol) hay hẹp hậu môn trực tràng (thuốc có chứa cephalosporin)…
Mặc dù phơi nhiễm với những kháng sinh này có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh, nhưng tỷ lệ ghi nhận là hiếm gặp. Vì vậy, cần cân nhắc giữa nguy cơ của việc sử dụng kháng sinh với nguy cơ nếu nhiễm khuẩn tiết niệu không được điều trị. Nhiễm khuẩn tiết niệu có thể hạn chế tăng trưởng của thai nhi trong tử cung và tăng nguy cơ sinh non.
Năm 2011, Hội Sản Phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetrics and Gynecology – ACOG) đã đưa ra ý kiến có thể kê đơn các kháng sinh này trong 3 tháng đầu thai kỳ nếu việc này được xác định là cần thiết.
Thuốc chống đông
Thuyên tắc phổi là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở người mẹ mang thai. Trong thai kỳ, nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch tăng 5 lần.
Heparin khối lượng phân tử thấp là thuốc ưu tiên sử dụng để điều trị trong thời kỳ mang thai. Warfarin bị chống chỉ định do thuốc dễ dàng đi qua nhau thai và có liên quan đến tình trạng giảm sản xương mũi và bệnh đầu xương lấm chấm trong 3 tháng đầu thai kỳ. Warfarin cũng có mối liên quan đến di chứng thần kinh như co giật, chậm phát triển, giảm trương lực cơ.
Hội Tim Hoa Kỳ (American Heart Association) và Trường môn Tim Hoa Kỳ (American College of Cardiology) cho phép sử dụng warfarin trong quý II và quý III của thai kỳ trong một số trường hợp nhất định.
Thuốc điều trị hen và viêm mũi dị ứng
Bệnh hen nặng có liên quan đến tăng nguy cơ tiền sản giật, trẻ sơ sinh nhẹ cân, sinh non và thai chết lưu.
Mối liên quan nhỏ giữa việc sử dụng thuốc điều trị hen và các dị tật bẩm sinh đã được phát hiện; tuy nhiên, việc ngừng hoặc giảm liều thuốc điều trị hen có thể dẫn đến tác hại đáng kể đối với sức khỏe người mẹ.
Salbutamol là thuốc được ưu tiên lựa chọn với nhiều dữ liệu an toàn trên người nhất. Corticosteroid dạng hít, trong đó Budesonid, là thuốc điều trị dài hạn được ưu tiên sử dụng. Nên tránh sử dụng corticosteroid đường toàn thân, do có liên quan đến dị tật hở vòm miệng và tác dụng bất lợi trên thai kỳ như trẻ sơ sinh nhẹ cân, sinh non, hạn chế tăng trưởng thai nhi trong tử cung và tiền sản giật.
Với viêm mũi dị ứng, ưu tiên sử dụng corticosteroid đường mũi. Loratadin và cetirizin là các thuốc kháng histamin thế hệ 2 được khuyến cáo sử dụng. Thuốc chống sung huyết có liên quan đến các dị tật bẩm sinh và không nên dùng trong thai kỳ.
Thuốc chống động kinh
Các cơn co giật trong thời kỳ mang thai ở người mẹ làm tăng nguy cơ thiếu oxy máu ở thai nhi, chậm nhịp tim, thai chết lưu, tử vong chu sinh và suy giảm nhận thức. Tỷ lệ co giật không thay đổi trong phần lớn nhóm phụ nữ mang thai.
Carbamazepin, lamotrigin, levetiracetam và phenytoin có nguy cơ gây dị tật thai nhi nghiêm trọng thấp nhất, nhưng các thuốc này vẫn có những mối liên quan nhất định với một số dị tật bẩm sinh. Valproat có liên quan rõ ràng với sự kém phát triển nhận thức và tăng nguy cơ mắc bệnh tự kỷ hay rối loạn phổ tự kỷ. Phơi nhiễm với carbamazepin, lamotrigin, levetiracetam và phenytoin có nguy cơ trên nhận thức và hành vi thấp hơn so với valproat, mặc dù cần thu thập thêm dữ liệu. Phenobarbital gây quái thai khi sử dụng trong 3 tháng đầu thai kỳ. Oxcarbazepin có liên quan đến chậm phát triển, dị tật bẩm sinh và thai chết lưu. Topiramat có liên quan đến dị tật hở hàm ếch và lithi carbonat liên quan đến dị tật tim.
Thuốc giảm đau và điều trị thấp khớp
Việc sử dụng thuốc giảm đau không kê đơn trong thời kỳ mang thai diễn ra phổ biến. Nhìn chung, nên tránh dùng ibuprofen và các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) trong thai kỳ do nguy cơ đóng ống động mạch sớm.
Paracetamol là thuốc được lựa chọn do có tính an toàn cao hơn so với NSAID. Tuy nhiên, bệnh nhân cũng nên nhận thức được rằng có thể có mối liên quan giữa việc sử dụng paracetamol trong thai kỳ và các tình trạng rối loạn phổ tự kỉ, vấn đề về phát triển thần kinh… mặc dù chưa có bằng chứng xác thực. Vì vậy, nên hạn chế sử dụng thuốc nếu có thể.
Cần ngừng sử dụng thuốc chống thấp khớp methotrexat, mycophenolat mofetil và cyclophosphamid trước khi mang thai, do các thuốc này có thể gây quái thai. NSAID có thể được sử dụng trong 3 tháng đầu và 3 tháng giữa thai kỳ để kiểm soát triệu chứng bệnh trong trường hợp cần thiết.
Thuốc điều trị đái tháo đường
Đái tháo đường không được kiểm soát có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai tự phát, dị tật thai nhi, tiền sản giật, thai to bất thường, hạ đường huyết ở trẻ sơ sinh và tăng bilirubin máu. Insulin là lựa chọn điều trị ưu tiên để kiểm soát đái tháo đường tuýp 1 và tuýp 2 vốn có ở phụ nữ vì thuốc này không qua được nhau thai, nhưng metformin và glyburid cũng có thể được sử dụng.
Các liệu pháp chính được áp dụng đối với bệnh đái tháo đường thai kỳ bao gồm liệu pháp dinh dưỡng, hoạt động thể chất và quản lý cân nặng. Thuốc có thể được bắt đầu sử dụng nếu không đạt được mục tiêu đường huyết với những thay đổi chế độ sinh hoạt đơn thuần
Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ metformin có thể qua hàng rào nhau thai cao hơn glyburid, nhưng glyburid có nguy cơ gây hạ đường huyết ở trẻ sơ sinh và thai to bất thường cao hơn metformin và insulin.
Lợi ích của metformin so với insulin bao gồm nguy cơ hạ đường huyết sơ sinh và tăng cân ở người mẹ thấp hơn. Khi sử dụng thuốc điều trị đái tháo đường đường uống, bao gồm metformin và glyburid, một số phụ nữ có thể không đạt được mức đường huyết mục tiêu, dẫn đến cần sử dụng insulin.
Thuốc điều trị tăng huyết áp
Tăng huyết áp mạn tính và tăng huyết áp thai kỳ có thể làm tăng nguy cơ hạn chế tăng trưởng thai nhi, thiếu nước ối, rau bong non, sinh non và thai chết lưu.
Thuốc điều trị tăng huyết áp được khuyến cáo sử dụng cho phụ nữ có tăng huyết áp mạn tính có chỉ số huyết áp liên tục >160/105 mmHg và phụ nữ bị tăng huyết áp nặng >160/110 mmHg và trong trường hợp tiền sản giật. Các lựa chọn điều trị được khuyến cáo bao gồm labetalol, nifedipin giải phóng kéo dài và methyldopa.
Hiện nay, các bệnh nhân mang thai tuy có nắm được tình trạng bệnh lý của mình, nhưng chỉ có dưới 50% bệnh nhân nhận thức được các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra liên quan đến thuốc mà bệnh nhân sử dụng. Vì vậy, nếu đang trong độ tuổi sinh sản, bạn cần tìm hiểu tất cả những thông tin về hậu quả tiềm tàng trên thai nhi liên quan đến việc sử dụng thuốc điều trị các bệnh mạn tính để có kết hoạch chữa bệnh kịp thời, hạn chế tối đa việc dùng thuốc trong thời kì mang thai.
Theo Trung tâm DI & ADR Quốc gia